Lịch sử Sơn Tây

Từ thời cổ đến Tiên Tần

Sơn Tây được xem là một trong những phát địa của dân tộc Trung Hoa,[4] có lịch sử thành văn trong ba nghìn năm. Các di chỉ văn hóa Tây Hà Độ và văn hóa Đinh Thôn thể hiện rằng ngay từ thời đại đồ đá cũ, loài người đã có nhiều hoạt động sinh hoạt trên địa bàn Sơn Tây ngày nay. Trong truyền thuyết, Sơn Tây là khu vực hoạt động chủ yếu của Hoàng ĐếViêm Đế- thủy tổ của dân tộc Trung Hoa. Ba vị vua thời thượng cổ nổi tiếng của Trung Quốc là Nghiêu, Thuấn, đều kiến đô lập nghiệp trên đất Sơn Tây: kinh đô của Nghiêu nằm ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần), kinh đô của Thuấn nằm ở Bồ Bản (nay thuộc Vĩnh Tế), kinh đô của Vũ nằm ở An Ấp (nay thuộc huyện Hạ).[4] Chính quyền nô lệ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc- vương triều Hạ đã được thành lập trên khu vực bao gồm nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay. Sang thời nhà Thương, Sơn Tây cũng là một khu vực thống trị chủ yếu của triều đình. Ở Lâm Phần ngày nay có Nghiêu miếu và Nghiêu lăng, ở Thấm Thủy có khu Thuấn Vương Bình, Long Môn ở Hà Tân được xem là nơi vua Vũ trị thủy, còn được gọi là Vũ Môn Khẩu.

Theo Sử ký, khi Chu Công Đán phụ chính Chu Thành Vương, có một chư hầu là nước Đường nổi loạn, Chu công Đán mang quân tiêu diệt. Sau đó, Chu Thành Vương bèn chính thức phong cho Cơ Ngu làm vua chư hầu nước Đường, gọi là Đường Thúc Ngu. Đất Đường ở khu vực phía đông Hoàng HàPhần Hà, sau này nước Đường đổi tên thành nước Tấn. Thời kỳ đầu Tây Chu, lãnh thổ của nước Ân bao gồm một phần đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay; nước Hàn tập trung quanh khu vực Hàn Thành thuộc tỉnh Thiểm Tây và Hà Tân thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay.

Bản đồ nước Tấn (晋) thời Xuân Thu, phần lớn lãnh thổ thuộc Sơn Tây ngày nay

Năm 805 TCN, Tấn Mục hầu nghe lệnh Chu Tuyên vương, đem quân đánh tộc Nhung, năm 802 TCN, ông đánh thắng đất Thiên Mẫu. Thời Xuân Thu, đại bộ phận tỉnh Sơn Tây thuộc về nước Tấn. Đến thời Tấn Văn công, nước Tấn xưng bá Trung Nguyên. Các kinh đô của Tấn trước sau đều nằm trên địa phận Sơn Tây: Đường (sau gọi là Tấn)[chú 1], Khúc Ốc [chú 2], Giáng (còn gọi là Dực)[chú 3], Tân Giáng (nguyên gọi là Tân Điền)[chú 4] Đầu thời Đông Chu, hai chi trưởng – thứ nước Tấn tại đất Dực và đất Khúc Ốc đã nổ ra chiến tranh giành ngôi vị quân chủ. Chiến tranh kéo dài gần 100 năm, trải qua 4 thế hệ mới kết thúc bằng thắng lợi của chi thứ Khúc Ốc với kết quả 5 vua Tấn ngành trưởng bị giết. Các khanh tộc tại nước Tấn về sau tiến hành tranh chấp quyền lực với nhau, lấn át cả vua Tấn. Năm 453 TCN, trong trận Tấn Dương, ba Nhà Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh bại quân họ Trí, ba nhà này sau đó cùng chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn. Nước Tấn sau đó hình thành cục diện bị chia ba, đến năm 403 TCN thì nước Tấn diệt vong, đây cũng là mốc thời gian mà nhiều học giả nhận định là khởi đầu thời kỳ Chiến Quốc, cũng vì nguyên do này mà Sơn Tây còn được gọi là "Tam Tấn".

Thời Chiến Quốc, nước Triệu đặt kinh đô tại Tấn Dương[chú 5], nước Hàn đặt kinh đô tại Bình Dương[chú 6], nước Ngụy trong thời gian 403 TCN-361 TCN đặt đô thành tại An Ấp[chú 7] Sau trung kỳ Chiến Quốc, kinh đô của Triệu và Ngụy phân biệt di dời đến địa phận Hà Bắc và Hà Nam ngày nay.

Thời Tần, Hán đến Nam-Bắc triều

Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng phân thiên hạ thành 49 quận, ban đầu trên địa bàn Sơn Tây có Thái Nguyên quận và Thượng Đảng quận, về sau phân tách thành 5 quận: Nhạn Môn quận, Đại quận, Thái Nguyên quận, Thượng Đảng quận, Hà Đông quận. Trong những năm Nguyên Phong thời Hán Vũ Đế, triều Hán thiết lập Tịnh châu thứ sử bộ trên địa phận Sơn Tây. Đến thời Hán Quang Vũ Đế, người Hung Nô tiến gần hơn vào Trung Nguyên, nuôi ngựa trên Lã Lương Sơn (呂梁山)[chú 8] và lưu vực Phần Hà. Thời Đông Hán, Tịnh châu được phân thành 9 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Vân Trung, Định Tương, Nhạn Môn, Sóc Phương, Ngũ Nguyên, đến những năm cuối Đông Hán thì được nhập vào Ký châu.

Năm 216, Tào Tháo phân người Hung Nô ở Sơn Tây ngày nay thành 5 bộ: Tịnh châu Tư thị (tại Phần Dương ngày nay) là tả bộ, Kì (tại huyện Kỳ ngày nay) là hữu bộ, Bồ Tử (tại huyện Thấp ngày nay) là nam bộ, Tân Hưng (tại Hãn Châu ngày nay) là bắc bộ, Đại Lăng (tại Văn Thủy ngày nay) là trung bộ, nhân khẩu đạt vài trăm nghìn người. Ngoài ra, trên địa bàn Sơn Tây còn có người YếtVũ Hương, bộ lạc Thát Bạt của người Tiên Ti cư trú tại huyện đạiĐại Đồng. Năm 220, Tào Ngụy thiết lập Tịnh châu trên địa phận Sơn Tây, chia làm 6 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Nhạn Môn, Nhạc Bình, Tân Hưng.

Hang đá Vân Cương tại Đại Đồng, được tạc từ thời Bắc Ngụy

Đến thời Tây Tấn, Sơn Tây thuộc về Tịnh châu: Thượng Đảng quận[chú 9], Thượng Cốc quận[chú 10]. Sau khi triều Tấn suy yếu do loạn bát vương, vào năm 304, thủ lĩnh Hung Nô là Lưu Uyên đã lập quốc, đặt quốc hiệu là Hán, định đô tại Li Thạch[chú 11], năm 305, sau một nạn đói, ông dời đô đến Lê Đình[chú 12] Sau đó, khu vực Sơn Tây trước sau thuộc nước Hậu Triệu của tộc Yết, nước Nhiễm Ngụy của tộc Hán, nước Tiền Yên của người Tiên Ti, nước Tiền Tần của tộc Đê, nước Hậu Tần của tộc Khương. Do chiến loại trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, kinh tế Sơn Tây bị phá hoại nghiêm trọng.

Thác Bạt Khuê đã lập ra Bắc Ngụy vào năm 386, hai năm sau, để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ mới chinh phục được, ông đã thiên đô Bắc Ngụy đến Bình Thành[chú 13]. Bắc Ngụy sau đó thống nhất phương bắc Trung Quốc, mở ra thời kỳ Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Sau đó, đến năm 534, Bắc Ngụy phân liệt thành Đông NgụyTây Ngụy. Thực quyền Đông Ngụy nằm trong tay đại tướng Cao Hoan. Năm 543, nhà Đông Ngụy cho đắp thêm Trường thành tại Sơn Tây dài 150 dặm. Năm 550, con của Cao Hoan là Cao Dương tiếm vị Đông Ngụy, lập ra Bắc Tề, cha con Cao Hoan lấy Tấn Dương làm biệt đô. Thực quyền Tây Ngụy nằm trong tay Vũ Văn Thái, đến năm 557 thì hậu duệ của Vũ Văn Thái là Vũ Văn Giác cũng tiếm vị Tây Ngụy, lập ra Bắc Chu. Thời Bắc Ngụy, Phật giáo lần đầu tiên có được sự hưng thịnh tại Trung Quốc, có tới ba vạn chùa viện, tăng ni lên đến 200 vạn, nhà sư Pháp Hiển bắt đầu chuyến đi huyền thoại tới Ấn Độ của ông từ Sơn Tây. Việc xây đục hang đá Vân Cương đã được hoàn thành trong khoảng thời gian 453-495.

Từ thời Tùy đến Kim

Tháp Thích Ca của chùa Phật Cung ở huyện Ứng, được Liêu Đạo Tông cho xây vào năm 1056

Thời Tùy, Sơn Tây thuộc về Ký châu, có vị thế quan trọng về mặt kinh tế. Tháng 9 năm 617, Lý Uyên từ nơi khởi binh tại Thái Nguyên đã vượt qua Hoàng Hà, đến tháng 11 thì công chiếm kinh đô Trường An. Năm 618, Lý Uyên lập nên triều Đường, bảy năm sau thì thống nhất toàn Trung Quốc. Triều đình Nhà Đường có thái độ trọng thị với Sơn Tây, xem đây là đất "Long Hưng", định Thái Nguyên làm Bắc Đô, kinh tế của Sơn Tây cũng đứng vào hàng đầu tại Trung Quốc. Khi đó, toàn Đại Đường có 18 hồ muối, vùng Hà Đông có 5 hồ, một hồ sản xuất được cả vạn hộc muối, cung cấp cho kinh thành, được Liễu Tông Nguyên gọi là "quốc chi đại bảo". Thời Đường, xuất hiện nhiều danh nhân là người Sơn Tây, như Tiết Nhân Quý, Võ Tắc Thiên, Địch Nhân Kiệt. Trong thời Tùy Đường, Phật giáo hưng thịnh, Ngũ Đài sơn tại Hãn châu từ thời gian đó đã là một thánh địa của Phật giáo Trung Quốc.

Đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, Lý Tồn Úc, Thạch Kính ĐườngLưu Trí Viễn lần lượt thành lập các triều đại Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Thái Nguyên khi đó là một nơi trọng yếu. Em trai của Lưu Trí Viễn là Lưu Mân đã lập ra nước Bắc Hán tại bắc bộ và trung bộ Sơn Tây, nước này nằm kẹp giữa Hậu Chu về phía nam và Đại Liêu của người Khiết Đan ở phía bắc, được Liêu bảo hộ.

Sau khi triều Tống được thành lập, nước Bắc Hán ỷ thế có người Khiết Đan chống lưng ở phương Bắc, tiến hành đối kháng với Tống. Năm 979, Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa thống lĩnh đại quân diệt nước Bắc Hán, phóng hỏa thiêu hủy thành Tấn Dương. Năm 982, triều Tống phái đại tướng Phan Mỹ (潘美) xây thành mới tại khu vực Thái Nguyên ngày nay. Đầu thời Bắc Tống, Sơn Tây thuộc Hà Đông lộ, lại khôi phục cảnh phồn vinh. Thái Nguyên sản xuất ra gương đồng và kéo đồng, được xuất đi tiêu thụ ở các địa phương khác. Sau thời Tống Chân Tông, tại Sơn Tây người ta cũng bắt đầu sử dụng than đá làm nhiên liệu.

Sau sự biến Tĩnh Khang năm 1125-1127, Sơn Tây chuyển sang thuộc quyền cai quản của triều Kim, quân Kim đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế phương Bắc Trung Quốc. Do Sơn Tây có Thái Hành Sơn làm chướng ngại tự nhiên, khói lửa chiến tranh gây cho Sơn Tây thiệt hại nhỏ hơn các địa phương khác. Kinh tế và văn hóa Sơn Tây phát triển trong thời Đại Định chi trị dưới sự cai trị của Kim Thế Tông và thời Minh Xương chi trị dưới sự cai trị của Kim Chương Tông. Bình Dương phủ (nay là Lâm Phần) trở thành trung tâm sản xuất giấy của Kim Quốc.

Thời Nguyên, Minh, Thanh

Tường thành Bình Dao, được xây vào năm 1370 thời Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương

Khi đế quốc Mông Cổ xâm lược Hà đông bắc lộ và Hà đông nam lộ của Kim, họ đã tàn phá Sơn Tây, cả nghìn không có bóng người. Trong thời Nguyên, Sơn Tây thuộc Trung thư tỉnh, chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình. Năm 1271, triều Nguyên thành lập Hà Đông Sơn Tây đạo tuyên úy ti tại khu vực phía đông Hoàng Hà, phía tây của Thái Hành Sơn, danh xưng Sơn Tây từ đó cũng bắt đầu được sử dụng.

Năm 1368, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân suất lĩnh quân Minh tiến vào Sơn Tây, thiết lập Sơn Tây hành tỉnh. Chu Nguyên Chương sau này phong cho ba nhi tử làm phiên vương, trú trát tại Sơn Tây: Chu Vi là Tấn vương, trú tại Thái Nguyên; Chu Quế là Đại vương, trú tại Đại Đồng; Chu Mô là Thẩm vương, trú tại Lộ An (Trường Trị), xây dựng Minh Trường Thành để phòng bị Bắc Nguyên xâm lược. Đầu thời Minh, có một lượng lớn di dân từ Sơn Tây đến vùng bình nguyên Hoa Bắc- vùng mà khi ấy đang vắng bóng người. Đại hòe thụHồng Động trở thành một địa điểm tập hợp nổi tiếng, đến nay cư dân các tỉnh vẫn lưu truyền ngạn ngữ: "Nếu hỏi tổ tiên đến từ xứ nào? Đại hòe thụ ở Hồng Động, Thiểm Tây". Triều Minh sau đó đã thiết lập Sơn Tây thừa tuyên bố chính sứ ti, tiền thân của Sơn Tây ngày nay. Thời Minh, thương nhân Sơn Tây kiểm soát phần lớn việc buôn bán muối và dịch vụ ngân hàng trong cả nước.[5]

Đến thời Nhà Thanh, triều đình đã đem một số khu vực ở bên ngoài Minh Trường Thành để nhập vào Sơn Tây. Sơn Tây tổng cộng có 9 phủ, 16 châu, 108 huyện. Thời gian này, ngành thương mại và tài chính của Sơn Tây hoạt động rất tích cực, xuất hiện văn danh "Sơn Tây phiếu hiệu" trên quy mô toàn quốc. Thương nhân Sơn Tây lập ra nhiều Sơn Tây hội quán hoặc Sơn Thiểm hội quán trên khắp Trung Quốc. Thời Thanh, Sơn Tây ít chịu ảnh hưởng của ngoại quốc, song một vài cơ sở sản xuất đã được thành lập tại Thái Nguyên vào năm 1898, và một tuyến đường sắt bằng vốn Pháp-Thanh đã được xây dựng từ năm 1904 đến 1907 để kết nối Thái Nguyên và Thạch Gia Trang ở tỉnh Hà Bắc ngày nay. Năm 1900, tổ chức bài ngoại Nghĩa Hòa đoàn đã đốt cháy một nhà thờ truyền giáo Anh tại Thái Nguyên, sau đó giết chết những người ngoại quốc và người Trung Quốc cải đạo theo Tây giáo. Điều này đã khiến phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, cuối cùng lan đến Bắc Kinh.[5] Nghĩa Hòa Đoàn được cho là đã giết chết 100.000 thường dân khắp miền Bắc Trung Quốc,[6] trong đó có 32.000 người Trung Quốc theo Tây giáo.[7]

Sau năm 1911

Diêm Tích Sơn, quân phiệt cát cứ tại Sơn Tây từ 1911-1949Giải phóng quân tiến vào Thái Nguyên tháng 4 năm 1949

Trong Cách mạng Tân Hợi, quân phiệt Diêm Tích Sơn tại Thiểm Tây đã chỉ huy lực lượng cách mạng địa phương đánh đuổi quân Thanh khỏi tỉnh, rồi tuyên bố độc lập khỏi triều Thanh. Diêm Tích Sơn sau đó được chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bổ nhiệm chức Sơn Tây đô đốc, ông ủng hộ Viên Thế Khải xưng đế, vì thế được phong làm "nhất đẳng hầu". Năm 1917, không lâu sau khi Viên Thế Khải chết, Diêm Tích Sơn củng cố quyền thống trị Sơn Tây. Cho tới năm 1911, Sơn Tây là một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Hoa. Diêm Tích Sơn tin rằng, nếu không hiện đại hóa kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng, Sơn Tây sẽ không chống nổi các quân phiệt từ các nơi khác.

Ngày 18 tháng 12 năm 1931, một nhóm sinh viên tại Thái Nguyên tập hợp phản đối chính sách nhân nhượng Nhật Bản của chính phủ Nam Kinh. Cuộc biểu tình trở nên bạo lực đến nỗi cảnh sát Quốc dân đảng đã nổ súng vào đám đông. Sự kiện "Thảm sát 18/12" gây ra một làn sóng giận dữ, tạo điều kiện cho các thuộc hạ của Diêm Tích Sơn thừa cơ trục xuất các viên chức Quốc dân đảng khỏi tỉnh, viện cớ là để đảm bảo an ninh. Sau vụ này, tổ chức Quốc dân đảng tại Sơn Tây chỉ còn trên danh nghĩa, trung thành với Diêm Tích Sơn còn hơn cả với Tưởng Giới Thạch.[8] Năm 1934, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến Thái Nguyên, tại đó ông ta ca ngợi chính quyền của Diêm Tích Sơn có công giúp đỡ, ủng hộ Chính phủ Nam Kinh, trên thực tế là thừa nhận quyền thống trị Sơn Tây của Diêm Tích Sơn.

Quan hệ tài chính giữa Sơn Tây và chính phủ trung ương rất phức tạp. Diêm Tích Sơn đã tạo ra được một tổ hợp công nghiệp nặng xung quanh Thái Nguyên, nhưng không công khai ra bên ngoài Sơn Tây, có lẽ là để đánh lừa Tưởng Giới Thạch. Dù đạt được những thành công nhất định trong công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp Sơn Tây, Diêm Tích Sơn vẫn liên tiếp yêu cầu chính phủ trung ương hỗ trợ tài chính để dùng mở rộng đường sắt và những việc khác, nhưng đều bị từ chối.[9]

Năm 1916, ít nhất 10% trong số 11 triệu dân Sơn Tây nghiện thuốc phiện, điều này khiến Diêm Tích Sơn quyết định phải tiêu diệt nạn thuốc phiện sau khi lên nắm quyền. Trước tiên, Diêm Tích Sơn xử lý bọn buôn thuốc phiện và những người nghiện nặng, đưa những người nghiện nặng vào và đưa họ và gia đình họ ra trước công chúng để làm nhục. Rất nhiều người bị kết án đã chết vì bị cắt cơn đột ngột. Sau năm 1922, một phần do sự phản đối của công chúng, Diêm Tích Sơn từ bỏ chính sách trừng phạt, chuyển sang chính sách phục hồi nhân phẩm cho người nghiện, thông qua gia đình họ mà buộc họ phải bỏ thuốc phiện, và xây dựng các trại cai nghiện cho mục đích này.[10]

Tháng 2 năm 1936, dưới sự chỉ huy của Lưu Chí ĐanTừ Hải Đông, 34.000 quân Cộng sản đã xâm nhập vào tây nam Sơn Tây. Những người Cộng sản có được sự ủng hộ phổ biến của người dân, và, mặc dù họ ít hơn và được vũ trang kém, song đã thành công trong việc chiếm một phần ba phía nam của Sơn Tây trong vòng chưa đầy một tháng. Những người Cộng sản ở Sơn Tây đã hợp tác thông tin với các nông dân địa phương để né tránh và dễ dàng xác định vị trí các lực lượng của Diêm Tích Sơn. Khi quân chính phủ Trung ương được phái đến chi viện, quân Cộng sản buộc phải rút khỏi Sơn Tây, sau đó lực lượng Quốc Dân đảng vẫn còn ở Sơn Tây thể hiện sự thù địch với quyền cai trị của Diêm Tích Sơn, nhưng không ảnh hưởng đến quyền cai quản của ông.[11]

Năm 1936, quân Nhật và lực lượng Mông Cương đã xâm lược khu vực do Diêm Tích Sơn kiểm soát, gián điệp Nhật Bản đã phá hủy một kho hậu cần lớn ở Đại Đồng và thực hiện các hành vi phá hoại khác. Trong chiến tranh Trung-Nhật (1937-1935), hầu hết Sơn Tây đã nhanh chóng bị người Nhật tàn phá. Sau khi để mất thủ phủ Thái Nguyên, Diêm Tích Sơn di chuyển trụ sở của mình đến một nơi ẩn náu biệt lập ở Lâm Phần, chống lại nỗ lực kiểm soát hoàn toàn Sơn Tây của Nhật Bản. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân của Diêm Tích Sơn (bao gồm cả quân Nhật cũ) đã tổ chức chống lại những người Cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Quốc kéo dài trong bốn năm. Đến tháng 4 năm 1949, chính phủ Quốc dân để mất quyền kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, quân cộng sản bao vây lực lượng của Diêm Tích Sơn. Sau chiến thắng trong chiến dịch Thái Nguyên, lực lượng cộng sản đã hoàn toàn kiểm soát Sơn Tây.

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Sơn Tây nằm trong các kế hoạch "Tiểu tam tuyến kiến thiết" và "Chi viện nội địa", kinh tế xã hội vì thế từng có thời điểm đã phát triển một cách nhanh chóng. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, tại Sơn Tây đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa tập thể, trong đó nổi bật là mô hình kinh tế tập thể chủ nghĩa tại thôn Đại Trại, Mao Trạch Đông từng ban ra lời hiệu triệu "Nông nghiệp học Đại Trại". Sau cải cách kinh tế, kinh tế Sơn Tây chuyển từ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên than đá phong phú dưới lòng đất sang dùng than đá để phát triển điện lực, than hóa học. Bước sang thế kỷ XXI, Sơn Tây đang nỗ lực tiến hành chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên sang phát triển công nghệ cao, các ngành công nghiệp có giá trị cao, và đã đạt được một số thành công.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sơn Tây http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.... http://www.shanxi.gov.cn http://www.shanxi.gov.cn/n16/n8319541/n8319597/n83... http://www.gov.cn/test/2012-04/06/content_2107687.... http://www.shanxigov.cn http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/S... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/S... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/S... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www2.hawaii.edu/~rummel/welcome.html